Hướng Dẫn Luận Đoán Lá Số Tử Vi

Tử vi là môn khoa học huyền bí đứng đầu trong lĩnh giải đoán số mệnh con người hiện nay là môn khoa học nghiên cứu về văn hóa đã được công nhận trong nền văn hóa Á Đông trong đó có người VIỆT NAM ta. Tuy nhiên để giải đoán lá số tử vi chuẩn thì không hề dễ dàng với nhiều người. Vậy quy trình để giải đoán, luận giải một lá số tử vi cụ thể thì cần có những bước nào? Cần chú ý về những điều gì trong lá số tử vi? Trong bài viết này XEM BOI TU VI chúng tôi sẽ  gửi tới quý vị bạn đọc chi tiết cách thức cũng như là hướng dẫn quý bạn đọc các bước để có thể luận đoán, giải đoán một lá số tử vi khi cần thiết cũng như là nắm bắt được quy trình cơ bản để luận giải lá số tử vi.

Hướng Dẫn Luận Đoán Lá Số Tử Vi Chi Tiết NHẤT

Trích dẫn: Tử Vi Đẩu Số của Việt Nam và Trung Hoa cổ đại cũng là bói toán vận mạng con người. Nó là một thứ Siêu Hình Học, trong ý nghĩa 110 Sao được an bài trên lá số. Nên sự chính xác của Tử Vi là tương đối? Theo tôi có lẽ chỉ 75% thôi?

Vì thế cũng làm cho người đoán giải lá số, dù tự tin, bạo nói, đôi lúc cũng phải dè dặt? Do đó phải thận trọng khi giải đoán!

Nhớ rằng có một số người nhờ xem lá số hay nhờ lấy dùm lá số, họ không thật thà đâu và cố ý cho giờ, ngày sinh sai để có ý đồ thử tài “Thầy”.

Các bước luận đoán lá số tử vi

Để luận đoán lá số tử vi được chính xác và tránh những sai lầm thì ta cần thực hiện theo các bước như sau:

  • Quan sát và phân tích bố cục của toàn bộ lá số
  • Quan sát, phân tích từng cung và xét sự phối hợp giữa các cung
  • Phân tích ý nghĩa, vị trí miếu hãm của chính tính, trung tinh và phụ tinh
  • Phân tích chi tiết đại vận, tiểu vận và của lá số
  • Kiến thức tổng hợp để giải lá số tử vi.
  • Kết luận.

Quan sát và phân tích bố cục của các cung và các sao

TRA CỨU THẦN SỐ HỌC ONLINE

Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Đỉnh Cao Cuộc Đời...

(*) Họ và tên của bạn:
(*) Ngày tháng năm sinh:
 

Ngay khi xem lá số quý vị đừng vội đưa ra phân tích các cung, các sao càng đừng vội kết luận gì cả. Mà hãy quan sát lá số một cách tổng quát, sau đó mới phân tích bố cục của các cung và các sao.

Đầu tiên phải xét các yếu tố sau

Xét sự thuận nghịch lý về âm dương giữa Năm sinh với vị trí cung an Mệnh để biết tổng quát tốt xấu của cung cần giải đoán.

  • Xét sự sinh khắc ngũ hành của Can Chi Năm sinh
  • Xét sự tương quan ngũ hành giữa bản Mệnh và Cục
  • Xem phối hợp hai cung tam hợp với cung an Mệnh-Thân
  • Xem phối hợp cung nhị hợp với cung an Mệnh-Thân
  • Xem phối hợp cung xung chiếu với cung an Mệnh-Thân
  • Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Thái Tuế trên lá số
  • Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Lộc Tồn trên lá số
  • Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Tràng Sinh trên lá số

huong-dan-luan-doan-la-so-tu-vi

Hướng Dẫn Luận Đoán Lá Số Tử Vi Chi Tiết NHẤT

Sau đó phân tích tiếp

Thế đứng của các chính tinh: Sao nào đi với sao nào để thành cặp, vị trí của các cặp sao Âm Dương, Tử Phủ, Thất Sát, sao chủ mệnh. Miếu, hãm của các chính tinh.

Thế đứng của các cung: Cung Mệnh, Tài bạch, Quan Lộc… nằm ở đâu?

Quan sát bố cục của các trung tinh, phụ tinh: Trung tinh gồm các sao như: Khôi Việt Tả Hữu Tứ Hoá, Xương Khúc, Thanh

Long, Quang Quý, Thiên Hình Thái Tuế, Kiếp sát, Lộc tồn, Lục sát ( Kình Đà Linh Hoả Không Kiếp), Thiên Mã. Tuy nói là trung tinh, nhưng nhiều khi nó quyết định cục diện của lá số còn mạnh hơn cả chính tinh.

Kế đó phải kể tới vòng Trường sinh, rồi Khốc Hư, Tang Hổ, và các sao chỉ bộ phận trong cơ thể để đoán biết về đặc điểm ngoại hình, bệnh tật.

Từ sự quan sát bố cục lá số này, cần phải rút ra được:

Điểm nổi bật nhất của lá số: Mấu chốt nằm ở cung nào, sao nào, cách cục nào

Chỗ tốt ở đâu, chỗ xấu ở đâu. Các ưu điểm và nhược điểm của lá số

Mức độ tốt xấu của từng yếu tố như: Mức độ thành công về sự nghiệp, mức độ hạnh phúc trong gia đình…Nếu không nhận biết được mức độ thì không thể có kết luận khi giải số.

Cách đọc Cục và Mệnh

Cục có nghĩa là cách cục, hay còn gọi là cuộc, là cái thế cuộc mà ta đang sống.

Hành Cục sinh Mệnh

Thí dụ: Mệnh Thổ, Hỏa Lục Cục, Hỏa sinh Thổ, người được hoàn cảnh ưu đãi, để gặp may mắn, để thuận lợi.

Thí dụ: Thổ Mệnh, Thổ ngũ Cục: người để hòa mình với hoàn cảnh, với đời sống bên ngoài.

Mệnh sinh Cục

Thí dụ: Thổ mệnh, Kim tứ cục: thổ sinh kim, người phải sinh cho môi sinh tức là vất vả, hay làm lợi cho thiên hạ.

Mệnh khắc Cục

Thí dụ: Thổ Mệnh, Thủy nhị Cục, Thổ khắc thủy, cuộc đời có nhiều trở ngại, hay làm hỏng đại sự, thành công trong nghị lực.

Cục khắc Mệnh

Thí dụ: Thổ Mệnh, Mộc tam Cục Mộc Khắc Thổ: đang thương, người hay bị môi sinh không thích hợp với mình, sự thành công nếu có đòi hỏi phải trải qua gian khổ.

Cách đọc Can và Chi 

Can là Thiên Can, Chi là Địa Chi – Can Chi kết hợp với nhau như sự giao hòa của trời đất, giống như 1 cây gồm 2 phần gốc và ngọn.

Can Chi Tương Hòa

Thí dụ: Giáp Dần, Mộc, Dần mộc là người sinh ra từ họ có căn bản vững chãi có đủ khả năng để đạt được cái mình đã có.

Chi sinh Can

Thí dụ: Ất Hợi: Hợi thủy sinh Ất mộc do may mắn mà thành công chứ thực lực, khả năng chưa đạt được đến mức độ ấy. Cuộc đời họ là một chuỗi dài may mắn tiếp nhau để có từ thành công này đến thành công khác.

Can sinh Chi

Thí dụ: Canh Tý, canh kim sinh tý thủy người được trời ưu đãi để làm việc, vừa có khả năng vừa gặp may thuận lợi để đưa đến thành công cách dễ dàng.

Can khắc Chi

Thí dụ: Canh Dần: canh kim khắc dần mộc người hay gặp nhiều nghịch cảnh dễ sẵn sàng làm đổ vỡ sự nghiệp, ở những mẫu người này cần đòi hỏi họ phải có 1 lá số với các sao đi đúng bộ thật tốt mới mong nên danh phận nhưng cũng vẫn trải qua nhiều nỗi thăng trầm.

Chi khắc Can

Thí dụ: Ất Dậu: Dậu kim khắc Ất mộc thành công trong khó khăn, sự nghiệp hay bị gẫy đổ lung tung để rồi lại xây dựng lại. Nói tóm lại thiếu may mắn.

Đem hành của bản mệnh so sánh với hành của 12 cung số

Ðể biết sự sinh khác giữa mình với những người liên hệ, bản mệnh là ta, cung an mệnh là nhà, là cái mà bao quản cho ta, các sao ví như đồ đạc, tiện nghi mà ta phải xử dụng, nếu tương sinh hoặc đồng hành, thời tốt mà làm lợi cho ta, nếu bị khắc thời bất lợi. Nếu bản mệnh tương hòa hay tương sinh với cung bản mệnh, cung an mệnh ở tại Dậu là kim khắc mộc. Thì đoán tìm đến các sao thủ và chiếu xem có sao nào đồng hành với bản mệnh không rồi lại thấy nếu sinh vào giờ kim xà thiết tỏa nữa thì thật là chết non chẳng sai mà đã chết non thì các cung liên hệ chẳng còn gì để bàn nữa.

Cho nên phú tử vi mới có câu:

  • Ðào Hồng ngộ kiếp Không đồng thủ
  • Xá bàn chi bần lũ yểu vong.

Thí dụ như lá số: Quí Dậu tháng 5 ngày 30 giờ Sửu – Âm Nữ kim mệnh, Hỏa cục, Mệnh lập ở Ngọ. Cung Ngọ là hỏa khắc mệnh kim, lại có Đào, Hồng gặp Không Kiếp nên đã chết từ lúc 3 tuổi.

Sau khi đã so sánh với cung mệnh rồi, thì lần lượt xem đến 11 cung kế tiếp để xem sự khắc hợp thế nào?

Thí dụ: người có Mệnh Mộc, cung Mệnh ở Dần cũng là hành Mộc, như vậy:

Phụ Mẫu nào ở Mão Mộc là tương hòa, con người giữ được chữ hiếu và cũng được cha mẹ yếu thương, Phúc Đức ở Thìn Thổ là khắc (mệnh Mộc khắc Thổ) là không tìm được sự giúp đỡ của họ hàng và bản thân cũng không tìm thấy sự an ủi, thoải mái đối với họ hàng.

Ðiền, Quan ở Tỵ là Hỏa, Mộc sinh Hỏa cho nên sẽ vất vả với công danh, với nhà cửa.

Nô ở Mùi, Tài ở Tuất, Bào ở Sửu đều thuộc Thổ cả, ta cứ luận như ở cung Phúc Ðức – nghĩa là phải vất vả với bạn bè, anh em và tiền bạc vì Mộc khắc Thổ. Ách ở đâu là Kim khắc Mệnh Mộc có nghĩa là mỗi khi bị bệnh tật hay tai nạn thì khó mà tránh được dễ dàng.

Cung Di ở Thân là kim khắc mộc: nghĩa là đứng trước một đối tượng người này hay bị ở vào tư thế lép vế dù rằng có khi mình hơn họ về phương diện nào đó.

Tử và Thê ở Hợi và Tý thuộc thủy sinh cho mệnh ở Dần, nếu lập gia đình, có con cái, thì cuộc đời sẽ thấy thoải mái hơn và nếp sống trong gia đình với vợ con cũng đặt được sự yêu thương thuận thảo.

Như trên là nguyên tắc và thí dụ, đối với các trường hợp khác cũng vậy cứ dùng ngũ hành sinh khắc của mệnh và 12 cùng mà suy, hễ khắc thì không hợp, tương hòa hay sinh thì được sự phù trợ, tùy theo cung sinh hay khắc.

Đặc tính ngũ hành và vị trí miếu, hãm của các sao

Để xếp hạng cách cục được hướng cho mỗi người, nhất là 14 chính tinh và các trung tinh. Hiểu rõ tính chất của mỗi sao, các sao đi như thế nào là đúng bộ, có phá lẫn nhau không, các sao Thủ và chiếu mệnh có đồng hành với bản mệnh không?

Thí dụ: bộ Nhật Nguyệt cần có Ðào Hồng Xương Khúc, bộ Tử Phù Vũ Tướng cần Tả, Hữu, Tam Hóa, bộ Sát Phá Tham cần Lục Sát Tinh đắc địa, bộ Cơ Nguyệt Ðồng Lương cần Tam Hóa, Quang Quý, Thai Tọa, phá của các cách, nhưng xin quí đọc giả lưu ý phần tính chất các sao là một trong những yếu tố quan trọng nhất để đoán tử vi được chính xác, nó cũng là một yếu tố để gây hứng khởi cho người xem và được xem tử vi.

Một người có số dù các sao đã đi đúng bộ nhưng không có chính tinh đồng hành với mệnh thì cũng chẳng tốt gì, dù mệnh có chính tinh hay trung tinh đi đúng bộ, lại có chính tinh đồng hành làm lòng cốt, nhưng lại gặp phá cách thì cũng vất đi mà thôi.

Thí dụ: Tử Phủ Vũ Tướng Hội Tam Hóa, Tả Hữu, nhưng lại gặp cả Không Kiếp, là cách để ngộ hung đồ. Lúc ấy Tả Hữu sẽ kết hợp bè đang với Không Kiếp và Quyền, Lộc lúc ấy chính là cái mồi để cho lũ hung đồ Không Kiếp làm rắc rối cho mình.

Có thuộc rõ tính chất của từng sao thì mình mới luận được nhiều điều dị biệt trong lá số, mới nắm được cái lý biến hóa vô cùng của Tử Vi, tại sao cũng số như vậy mà người này thế này người kia thế kia. Tại sao theo sách thường thì Ðào Hồng Nhật Nguyệt là thi đỗ mà nay người ấy lại chẳng đậu, chẳng hóa ra các người đi trước sai cả hay sao, nhưng nếu xét cho kỹ thì mới thấy được cái đã phá đi mất tính chất tốt đẹp ấy. Nói tóm lại, gặp sao tốt phải xem ngũ hành để mình có được hưởng hay không? Rồi xem có bị phá cách không? Gặp hung tinh xem có đắc địa không? Tất cả các bàng tinh (sao nhỏ) có nhập bộ không? Có phù trợ đắc lực hay hợp với bộ chính tinh của mình không? Có nhiều người đã cho rằng môn Tử Vi cần đơn giản hơn, bỏ bớt các sao nhỏ đi không cần dùng tới, nói như thế thì các bậc tôn sư ngày xưa lập và theo môn Tử Vi lại làm thừa sao? Sao các cụ không bỏ bớt mà phải chờ đến lượt mình. Sự thật, nếu thuộc kỹ, các tính chất cả các sao nhỏ mới tìm thấy các vi diệu, cái lý thú của Tử Vi.

Thí dụ: như sao Phượng Các và Giải Thần luôn luôn đi với nhau, có người bảo sao không bỏ bớt một sao mà lại phải để cả hai, thực ra vì cái lý khi tiểu hạn gặp Phượng Các tất có ốm đau nặng, nên Giải Thần phải luôn luôn đi kèm để giải đi cái hung hãn của Phượng Các. Lại như Thiên Riêu, Thiên Y lúc nào cũng đồng cung vì lấy lý rằng: thầy thuốc luôn luôn phải biết cả Y, Dược. Luôn bào chế, nhưng cho dù thế sự ngày này biến đổi đã phân ra làm Y, Nha, Dược hỏi về cách dùng thuốc. Chính là tính chất Thiên Y vậy.

Những suy luân tiếp theo và những kinh nghiệm về hợp cách và phá cách sẽ được trình bày ở mục Tử Vi vấn đáp.

huong-dan-luan-doan-la-so-tu-vi

Vị trí các sao với 12 cung

Sau khi đã xem đến ngũ hành, đắc tinh miếu, hãm. Bộ cách các chính tinh hợp nhau, phá cách và các sao Phù trợ lại cần phải để ý lại một lần nữa xem vị trí các sao nằm trên 12 cung số có đúng với các sao nằm trên 12 cung số, có đúng với tính chất của nó không? Tài tinh phải cư Tài Bạch, Phúc Tinh phải cư Phúc Ðức, Quyền tinh phải ở Quan lộc, Uy Dũng chỉ tinh nên ở mệnh với nam nhân, còn nữ nhân mà có Uy Dũng tinh thủ chiếu mệnh là phá cách, cuộc đời sẽ cô đơn vất vả, và có nhiều oan trái dù có nhiều cát tinh phù trợ sao tuy đi đúng bộ, đắc địa nhưng nằm nghịch vị trí thì cũng không tốt, ví như Phá chẳng nên cư ở Nô Bộc, Thê Thiếp, Tài Tinh là Lộc Tồn, Hỏa Lộc nên tránh xa cung Tật Ách, các sao cứu giải cần đóng ở Ách, Phúc tinh nếu đóng ở Phúc Ðức thì tốt hơn các cung khác.

Vị trí cung Mệnh với Thái Tuế, thứ đến xem cung Mệnh nằm ở đâu với vòng Thái Tuế

Nếu mệnh nằm trong tam hợp tuổi

Thí dụ người tuổi Dần có mệnh lập ở Dần, Ngọ hay Tuất tức là vị trí Thái Tuế, Quan Phủ, Bạch Hổ vì sao Thái Tuế an theo năm sinh, sinh năm nào Thái Tuế cư cung có tên của năm ấy; tức là loại người luôn luôn tự mắc cho mình lấy 1 tinh thần trách nhiệm, hay can dự vào những chuyện bất bình, gánh vác việc người, có lòng hào hiệp, chính vì vậy mà Phú Ma Thị có câu “Thân cư Thái Tuế dữ nhân qua hợp”, Thân đây chính là Thân Mệnh vậy, các cổ thư khi bàn đến tính chất của Thái Tuế đều cho như một cái gì không tốt đẹp lắm; nào là đa chiêu thị phi khẩu thiệt, ít cảm tình, kiêu kỳ lý luận chính vì cái lý sự đời nhiều cảnh trái ngang, mà đã là chính nhân quân tử thì làm sao lại hòa mình với sói lang được, nên phải đứng riêng, ra tay nghĩa hiệp nên hay bị thiên hạ gây ác cảm, cái tính chất của Thái tuế như vậy cho nên bao chiều chung quanh luôn luôn có Long Phượng Cái Hổ, là tứ linh phục châu – bởi vậy người Thái Tuế không cần Tam hóa, cũng vẫn phong lưu, vẫn được người đời khi ghét nhưng vẫn phải nể. Vì ghét đây vẫn chỉ là ghét vì thói thường, vì sự can thiệp của Thái Tuế mà cản trở việc làm mờ của họ. Nhưng người Thái Tuế vẫn đứng trên lẽ phải, do đó mà người có Thái Tuế thường hay tự hào, đôi khi kiêu ở ngầm trong chính bản thân họ, trong tâm hay khinh thường đối tượng. Sách nói Thái tuế khinh người quả là không sai.

Khi Mệnh có Thái Tuế, tức đi Phu mẫu Phải ở thế tam hợp với Thiên Không, có nghĩa là từ khi sinh mình ra thì công việc, sự nghiệp của cha mẹ đang trên đà xuống dốc nếu không muốn nói là suy sụp.

Nếu mệnh nằm trong tam hợp lấn tuổi

Thí dụ: tuổi dần ngọ tuất mà mệnh nằm ở 1 trong 3 cung Hợi Mão Mùi, tức là ở thế lấn và luôn luôn có Thiên Không, vì Thiên Không an ở đằng trước theo chiều thuận (chiều kim đồng hồ), trước Thái tuế 1 cung, ở đây lại chia làm 3 trường hợp:

Thiên Không ở tứ chính: tý, ngọ, mão, dậu tức là người khôn ngoan, lấn lướt, luôn luôn phải hơn người mới chịu, sắc sảo – nếu tại Mệnh thì đó là tư tưởng nhưng nếu tại Thân thì sự lấn lướt mà tục ngữ Việt Nam gọi là “khôn ăn người” lại tỏ ra bằng hành động.

Thiên Không ở thế tứ mộ: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Ðây là vị trí Thiên Không hoạt động mãnh liệt nhất, phá tán nhất, gây nhiều đổ vỡ nhất, vì Thiên Không là hành Hỏa sinh cho cung Thổ, tức là người hay thích đạp đổ tất cả những gì có từ trước để xây dựng lại theo ý của mình, loại người nguy hiểm, ác nếu có nhiều hung tinh gây bè kết đảng xúi giục.
Thiên Không ở thế tứ sinh: Dần, Thân, Tỵ, Hợi ở đây Thiên Không có Hồng Loan đi kèm, Không là sắc sắc không không, là vạn sự giai không Hồng Loan ngoài các ý nghĩa khác còn có ý nghĩa tương cho của chúa, cửa thiên đường – như ngầm nói lên con người có Thiên Không ở tứ sinh đã ngộ được chữ không ở đời mình, khéo tu thì tránh được phiền não.
Nhưng dù ở vị trí nào thì bản chất Thiên Không vẫn là vạn sự giai không, lo toan, khôn ngoan cho lắm thì kết quả sau cùng cũng vẫn là chữ không. Chỉ có những chân tu, nhưng người chọn theo cửa không thì mới được thoải mái vì không có thì không mất. Ví như kẻ trộm đi lấy tiền của 1 người túi rỗng thì phỏng có được gì, mà người bị trộm kia thì có gì để mất, nhưng đáng tiếc thay, trên đời này vòng danh lợi luẩn quẩn mấy ai đã ngộ được chữ “Không” ấy.

Mệnh ở Tam Hợp: Tang Môn, Ðiếu Khách, Tuế Phá tức là lấn với cung tuổi 2, hay lùi sau 2 cung

Ðây là loại người hay bất mãn, than vãn để đi đến đối lập, cuộc đời hay gặp nghịch cảnh để khơi nỗi niềm bất mãn lên cao nhưng nếu gặp Thiên Mã đồng hành bản mệnh thì lại giúp cho họ có một nghị lực vững vàng để sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn tiến đến thành công.

Mệnh ở thế lùi với cung tuổi

Tức là mệnh 6 cung sau cung tuổi, thí dụ tuổi dần ngọ tuất có mệnh ở tỵ dậu sửu, với vòng Thái Tuế là: Trực phù, Thiếu âm, Long Ðức là loại người hiền từ căn bản, hay nhịn không hơn thua, chó sủa mặc chó, đường ta ta cứ di, nhưng hành động lại vụng về chuyên đào giếng cho thiên hạ uống nước.

Nếu mệnh ở thế lùi cung tuổi thì Phu mẫu lại thế Thái Tuế và có Long Phượng Cái Hổ, như thế là từ khi sinh ra mình, cha mẹ sẽ ăn nên làm ra sự nghiệp thăng tiến.

Ðến đây, xin kính cẩn tri ơn cụ Thiên Lương, nhưng phổ biến việc khai triển vòng Thái Tuế và các kinh nghiệm có tính cách nghiệm lý của cụ về Tử Vi, đã gây một tiếng vang chấn động trong làng Tử Vi mà các cổ thư hay các cụ tiền bối của ta vì hữu ý hay vô tình không nói đến. Cụ đã mở ra, đã chứng minh, đã xây dựng thành công Tử Vi là cả một nguyên lý học, dạy con người ở đời phải sống thế nào cho được thoải mái, chứ không phải chỉ thu hẹp Tử Vi như một môn bói toán, với những định luật bắt buộc có tính cách cố định, như những ai kia hằng quan niệm.

Xem cung nhị hợp

CÁC CUNG NHỊ HỢP GỒM CÓ:

  • Tý hợp Sửu
  • Dần hợp Hợi
  • Mão hợp Tuất
  • Thìn hợp Dậu
  • Ngọ hợp Mùi
  • Tỵ hợp Thân

Nhưng cần lưu ý thế nhị hợp giữa 2 cung sinh xuất, hay sinh nhập, muốn biết cung nào sinh xuất hay sinh nhập cho cung nào cần biết thế tam hợp và hành của tam hợp.

  • Tam Hợp: Dần Ngọ Tuất thuộc Hỏa
  • Tam Hợp: Thân, Tý, Thìn thuộc Thủy
  • Tam Hợp: Hợi, Mão, Mùi thuộc Mộc
  • Tam Hợp: Tỵ, Dậu, Sửu thuộc Kim.

Như thế: 4 thế tam hợp chỉ có bốn hành Hỏa, Thủy, Mộc, Kim còn hành Thổ đi đâu mất? Trong dịch học có nói Thổ là trung ương, ứng với số 5, còn gọi là Ngũ Trung trong ngũ hành Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ thì hành Thổ là chính cho nên Tử Vi, Thiên Phủ là 2 sao đứng đầu của 2 nhóm chính tinh đều thuộc Thổ – ở đây ta thấy các Tam hợp Dần Ngọ Tuất tuy thuộc hành Hỏa, nhưng trong đó đã có Tuất Thổ, Thân Tý, Mùi thuộc Mộc có Mùi Thổ, Tỵ Dậu Sửu thuộc Kim có Sửu Thổ.

Ðem hành của Tam Hợp so sánh với thế nhị hợp ta có:

Thân Tý Thìn: hành Thủy được Tỵ Dậu, Sửu hành Kim sinh nhập, hay Tỵ Dậu Sửu nhị hợp và sinh xuất Thân, Tý, Thìn.
Dần, Ngọ, Tuất, hành Hóa được Hợi, Mão, Mùi sinh nhập, hay Hợi, Mão, Mùi sinh Dần, Ngọ, Tuất.
Như vậy, trên lá số có 12 cung, có 6 cung được sinh nhập và 6 cung sinh xuất:

  • 6 cung sinh nhập là: Dần, Ngọ, Tuất, Thân, Tý, Thìn.
  • 6 cung sinh xuất là: Tỵ Dậu, Sửu, Hợi, Mão, Mùi.

Ðể cho dễ nhớ hơn, trong thế nhị hợp của 12 cung thì 6 cung dương là sinh nhập, còn lại 6 cung âm là sinh xuất.

huong-dan-luan-doan-la-so-tu-vi

Ứng dụng:

Nếu mệnh nằm ở cung âm là sinh xuất tức là người hào sảng, phóng khoáng dễ tha thứ, rồi xem đến cung nhi hợp là cung nào, tức là người hay lo toan yêu thương cho đối tượng thuộc cung ấy.Thí dụ: mệnh ở Sửu- như thế Tý là cung huynh đệ cung mệnh nhị hợp và sinh xuất cho huynh đệ tức là người hết lòng thương yêu, hy sinh quyền lợi của mình cho anh chị em.

Nếu mệnh nằm ở cung dương là thế sinh nhập tức là ở thế thu vào, thế hưởng lợi, là người kỹ lưỡng làm việc gì cũng suy xét, tính toán cẩn thận. Lại xem đến cung nhị hợp là cung thuộc quan hệ nào, thì người ấy (bản mệnh) nhận được sự bao dung giúp đỡ che chở của đối tượng nhị hợp ấy.Thí dụ: mệnh ở Thìn, nhị hợp và được nó ở Dậu sinh nhập cho mệnh như thế là người có cuộc sống gắn liền với bè bạn, luôn luôn được bạn giúp đỡ, tóm lại số nhờ bạn.

Các cung khác cũng luận như vậy. Cung an Thân cũng luận như thế vì Thân ở đây chính là cái ta vậy. Thứ đến luân đến yếu tố sao của cung nhị hợp: khi coi cung nhị hợp phải để ý xem có chính tinh nhị hợp, phải để ý xem có chính tính nhị hợp hay không?

Nếu có mới là bảo đảm nhị hợp còn nếu không chỉ là hư vị mà thôi. Thí dụ: Tử vi ở cung Ngọ (dương) nhị hợp với cung Mùi (âm) nếu lấy lý âm dương mà suy thì âm phò dương tức Mùi sinh Ngọ – nhưng hễ cứ Tử Vi cư Ngọ thì cung Mùi bao giờ cũng vô chính diệu mà đã vô chính hiệu thì lấy gì kết đôi với Tử Vi đây? Như thế thì cung Ngọ không thể hưởng được các sao ở cung Mùi.

Xem cung xung chiếu

Như thế nào thì hưởng thế xung chiếu? Cung Thiên Di luôn luôn ở thế xung chiếu với cung Mệnh tức là thế đối nghịch với mình, sách xưa nói Thiên Di là ra ngoài, phải hiểu rằng Thiên Di chính đối phương của mình, vì thế mới có câu:

Ðối phương hung đương đầu ác bổng.

Ðối phương cát ngưỡng diện xung phong.

Nếu cung Thiên di khắc cung Mệnh tất không được hưởng cung Thiên Di, mà còn xấu rứa là khác, nếu cung đi và tam hợp của đi có nhiều hung sát tinh hội họp.

Thí dụ: người có mệnh lập ở Dần, Thiên di ở Thân mà tam hợp Thân Tý, Thìn lại có sát tinh, thì khi ra đời hay bị thua kém. Chỉ được hưởng cung Thiên Di khi cung mệnh khắc cung di, đây chính là lúc áp dụng coi chính điệu xung chiếu như chính diệu tọa thủ đối với cung vô chinh diệu. Thí dụ: người mệnh lập ở Thân có Thiên Di ở Dần, Thân khắc Dần nên mới thu hút được các sao ở cung Dần sang, coi như ở thế bị khắc thì đã bị khắc rồi thì còn lấy của đối phương làm sao được?

Cách cuộc tốt xấu của các cung liên hệ

Phải để ý Thân, Mệnh, Tài, Quan có bị Tuần Triệt xâm phạm không? Tật ách có được Tuần, Triệt hay các sao cứu giải như Hoa Khoa cư ở đấy không?

Sau khi đã biết được tổng quát cuộc đời và các cung liên hệ như Bào, Thê, Tử..  thì coi đến hạn.

Cách coi hạn

Trong lá số Tử Vi có 2 loại hạn. Tiếng hạn đây chỉ có nghĩa như một khoảng thời gian có giới hạn mà trong đó mình sẽ gặp hay được hướng những gì chứ không phải hạn đây là tai nạn.

  • Ðại hạn: khoảng chừng 10 năm.
  • Tiểu hạn: khoảng 1 năm.

Ðại Hạn

Trước hết phải xem yếu tố đại cuộc, tổng quát xem đại hạn ấy có thuận lợi cho mình không? Bằng cách dùng tam hợp tuổi của mình so sánh với hành tam hợp của từng đại hạn để xem xung khắc thế nào?

Ðược tương hòa: tức là vận đáo Thái Tuế đắc Long Phượng Cái Hổ- Nếu gặp nhiều cát tinh thủ chiếu, đang gặp tai nạn thì cũng được cứu giải mà qua khỏi- Nếu gặp nhiều hung tinh phá cách mát mặt với đời.Thí dụ như người tuổi Dần, Ngọ, Tuất, đại hạn 10 năm đến cung Dần, Ngọ, Tuất.

Ðược tương sinh: hành của tam hợp, đại hạn.. sinh hành của tuổi, thì đủ: tuổi Dần, Ngọ, Tuất, Đại hạn đến cung Hợi, Mão, Mùi (mộc sinh Hỏa) được thuận nhập có nhiều thuận lợi may mắn, sức khỏe tốt.

Tam Hợp của tuổi khắc Tam hợp đại hạnThí dụ: Dần, Ngọ, Tuất là Hỏa đáo vận Tỵ, Dậu, Sửu là Kim khắc xuất, tức là mình đi khắc người ta, vất vả không tốt.

Tam Hợp đại hạn khắc tam hợp tuổiThí dụ: tuổi Dần Ngọ, Tuất đại vận đến cung Thân, Tý, Thìn là Thủy khắc Hỏa, là khắc nhập tức là bị người ta khắc mình, rất xấu, dù các sao trong Ðại Hạn có tốt mấy đi nữa thì cũng bị giảm đi rất nhiều.
Sau khi đã xem đến Ngũ Hành Sinh Khắc để biết trong đại hạn 10 năm ấy, có được thuận lợi hay không, phải để ý đến các sao thủ mệnh thuộc bộ nào, có hợp bộ với các sao trong đại hạn hay là bị các sao của hạn làm phá cách đi. Thí dụ: mệnh Nhật Nguyệt tối kỵ hạn gặp Hình Kỵ, mệnh Thất Sát kỵ hạn gặp Kình Ðà, tối độc mệnh có Lục Sát Tinh, hạn lại gặp Ðại hao, Phá quân như trên chỉ là thí dụ điển hình, nhiều cách, nhiều sao phá nhau đã được trình bày trong bất cứ các sách Tử Vi nào cũng có, nhưng truy nguyên cũng suy từ tính chất các sao mà ra, ta cứ học kỹ tính chất các sao mà ra, ta cứ học kỹ tính chất các sao nghiền ngẫm, sẽ tìm được sự sinh khắc chế hóa thật là kỳ thú, nhiều khi thấy tốt đấy mà không phải là vậy, nhìn phớt thấy toàn sao tốt, nhưng chỉ một sao nhỏ cũng làm cho phá cách đi, tỷ như có người con gái mệnh có Ðào hoa ngộ Thiên Không, Hình, Riêu mà sao không lẳng lơ dâm đãng, lại thật là đúng đắn, vì có sao Nguyệt Ðức ở đấy, sao nãy hóa giải được tính hoa nguỵêt của đào hồng, hay người mệnh Hỏa mà hạn gặp sao Thủy thì không những chẳng được hưởng mà còn mang họa nữa là khác. Tóm lại: các sao trong hạn phải hợp bộ với bản mệnh và hợp bộ với bản mệnh và hợp hành với mệnh của mình thì mới được hưởng, rồi xem lại đến hành của tam hợp đại hạn ấy mình được sinh khắc thế nào mà chế hóa đi cho tinh tường của Tử Vi cũng là chỗ này vậy.

Khi xem đại hạn nên chú ý đến các sao trong hạn, tuy hợp bộ nhưng tính chất có khác biệt với các sao ở mệnh không nếu có thì người ấy đến đại hạn đó sẽ đổi nghề, thí dụ: người mà các sao thủ mệnh là văn tinh như Xương Khúc Khôi Viêt.. nhưng đến Ðại Hạn lại gặp võ cách như Binh Hình Tướng Ấn, Sát Phá Tham tức là người ấy sẽ đổi văn ra võ, lại như người đang là võ cách đến đại hạn gặp toàn văn tinh, quí tinh nhưng sao an nhàn thì quyết là đổi võ ra văn, hay một người có số thầy thuốc nhưng đến đại hạn lại gặp Kình đã đắc địa. Các sao mồm mép như Cựu cơ và các Tài tinh, mà không gặp các Quý Tinh như Quan Phúc, Quang Quí, thì đại hạn ấy sẽ đổi nghề thầy thuốc ra thương mại.

Các trường hợp khác cũng vậy cứ tính chất các sao mà suy. Ở đây tôi chỉ xin phép để nhắc lại với quý đọc giả cái kỳ thú do sự nghiệm lý ở Tử Vi mà thôi cái Dịch học của Á Ðông ta biến hóa vô cùng dù viết cho có thiên kinh vạn quyển cũng bất tận nhưng quy lại cũng chỉ có một nguyên tắc là Âm Dương, Ngũ Hành sinh khắc chế hóa nên người học Tử Vi cũng vậy, cứ nghiền ngẫm cho kỹ tính chất các sao và đặc tính của mỗi cung số là nắm được chìa khóa, đi từ gốc đi lên ta sẽ không bị lạc vào rừng, sở dĩ có trường hợp “a diêu” tử vi là vì có nhiều người khi cầm một quyển sách chỉ muốn đoán ngay được cái vận mạng của con người, nên chỉ lật phần lý giải mã không xem kỹ những nguyên tắc, có biết đâu phần phụ cũng như lý giải chỉ là những trường hợp điển hình tổng quát để giúp ta theo đó mà biến hóa cái cần bàn ra hơn nữa.

huong-dan-luan-doan-la-so-tu-vi

Tiểu Hạn

Tiểu hạn là những gì xảy ra trong 1 năm, đến với con người, trước khi đi vào tính chất các sao trong cung Tiểu hạn, nên lưu ý đến xung khác với tuổi của mình không, thí dụ như tuổi Canh Dần đến năm Bính Thân, Thiên Can là Bính Hỏa khắc Canh Kim, Ðịa Chi là Thân Kim khắc Dần Mộc. Như vậy gọi là năm Thiên khắc Ðịa Xung, độc lắm, thế nào cũng có một vài rắc rối xảy ra. Dù gặp nhiều sao tốt cũng bị giảm bớt đi, nếu có nhiều sao xấu thì lại càng hung bạo.

Xem đến hành của năm tiểu hạn là hành gì, sinh khắc với bản mệnh thế vững hay không? Thí dụ: năm nay Tân Dậu là Hành Mộc, sẽ Thiên Khắc địa xung với người tuổi Ất Mão, và tất cả mọi người tuổi Mão đối với năm nay đều là năm xung, làm ăn sẽ không khá và có khi là còn gặp tai nạn nữa, vì là năm Mộc cho nên tốt cho những có mệnh Mộc hay Hỏa, vất vả cho mệnh Thủy lao đao, bất lợi cho mệnh Thổ.
Kể đến đem hành của bản mệnh so sánh với hành của cung tiểu hạn để xem sự tốt xấu thế nào. Vì đây chính là cái căn bản, cái gốc, yếu tố sao chỉ là cái thân, cái ngọn để đoán tiểu hạn.
Về mục này trong cổ thư về Tử Vi có bài Phú như sau:

  • Kim nhân ngộ khảm mệnh tử thương
  • Mộc mệnh lạc hy hữu họa ương.
  • Thủy ngộ càn cung ứng khiến trệ.
  • Hỏa lai đoài thương hảo nan toàn.
  • Thổ khắc đông nam phung chấn tốn
  • Tu phòng nùng huyết cập kinh hoàng.
  • Túng nhiên cát điệu tương phùng chiếu.
  • Vị miễn quan tai náo nhất tràng.

Xin được giải như sau:

Người mệnh Kim mà tiểu hạn đi đến cung Tí là cung Khảm thuộc hành Thủy thì bị thương hại vì bản mệnh kim sinh xuất cho cung Tí là Ðại hải Thủy, như thế ắt mệnh sẽ bị suy tàn.

Người bản mệnh Mộc hạn đi đến cung Ngọ là quẻ Ly hành Dương Hỏa Mệnh Mộc sinh cho cung Ngọ là Lôi Trung Hỏa, tất được sang nhưng để rồi lại tan ra tro bụi, nên không tránh khỏi tai ương họa hại để tổn đến bản thân.

Người mệnh Thủy mà hạn đến cung Dần quẻ Cấn – Hành Thổ là ngưng chi bế tắc – mệnh Thủy bị Thổ khắc cho nên kiếm vận bị bế tắc – như ngòi lạch bị chận ngưng.

Người Mệnh Thủy mà hạn đến cung Dần quẻ cấn – Hành Thổ là ngưng chi bế tắc – mệnh Thủy bị Thổ khắc cho nên kiếm vận bị bế tắc – như ngòi lạch bị chận ngưng.

Người mệnh Hỏa hạn đến cung Dậu quẻ đoài thuộc Kim – tức là mệnh Hỏa khắc cung Kim tức là không có chỗ nương thân – vì mình khắc chỗ đứng của mình mà Hỏa khắc Kim thì rồi Hỏa bị sa lầy vì nếu Kim bị khắc sẽ sinh ra Thủy mà khắc ngược lại Hỏa. Trong ngũ hành tương khắc chỉ có hành kim là đặc biệt.

Người Mệnh Thổ hạn đi đến cung Mão, quẻ chấn, thuộc Mộc, khắc mệnh Thổ, là chỗ đứng khắc mình nặng nhất ở cung Chấn vì chấn là tượng cho lôi đình, sấm sét nên những sự việc không hay xảy đến cho người mệnh Thổ có lưu hàn ở cung Mão, thường xảy ra bất ngờ và mãnh liệt.

Tất cả trường hợp trên phải đề phòng bệnh tật tai ương và rất cần gặp được Tuần Triệt án ngữ – hay cát tinh hợp chiếu thì mới ra khỏi, nhưng cũng gặp một phen hoảng vía.

Kế đến là chú ý đến các sao trong cung tiểu hạn, nếu Ðại Hạn đáo cung Thái Tuế làm cho con người được nhẹ bước thang mây bao nhiêu, thì tiểu hạn Thái Tuế lại rắc rối bấy nhiêu vì vậy nên cụ Lê Quý Ðôn mới có câu:

  • Quan phủ Thái Tuế một đoàn
  • Ðêm ngày chầu chực của công mỏi mòn.

Tiểu hạn Thái Tuế tất có sự thị phi quan tại khẩu thiệt phải liên quan đến chốn công môn. Khi xem tiểu hạn thì lấy sao của tiểu hạn phối hợp với gốc đại hạn và cung mệnh, để xem các bộ sao nhập bộ nhau ra sao mà đoán, tùy theo tính chất của nó, sau khi suy ra được tốt xấu thế nào, về phương diện nào thì lại phải chế hóa với các yếu tố đã trình bày ở trên xem xấu tốt tới độ nào?

Nhưng điều quan trọng khi đoán hạn, nếu thấy cát tinh cung chiếu phải để ý xem có sao nào làm cho phá cách không nếu thấy số xấu quá, gặp toàn hung tinh, hay nghịch lý âm dương ngũ hành thì phải đi tìm Tuần, Triệt và các sao cứu giải xem nằm ở đâu, có chiếu vào hạn để cứu khốn phò nguy hay không?

Còn như muốn biết cách cuộc của một người thuộc loại như văn đoàn, hay võ cách, thương mại hay tiện nhân, thọ yểu ra sao thì cứ lấy tính chất các sao thủ và tam hợp chiếu với mệnh, lại lấy ngũ hành của bản mệnh sánh với ngũ hành của chính tinh thủ chiếu rồi để ý xem có ác sát tinh nhập mệnh không mà đoán, sẽ thấy rõ được cái dự thảo mà Thượng Ðế đã dành cho mình do cái nhân của mình đã gieo từ tiền kiếp, để rồi cho mình tự do chọn lối sống thế nào mà ngay từ cái đời hiện tại vẫn có thể tu sửa để tránh được những phiền não mà kiếp người trong cõi nhân sinh không mấy ai thoát khỏi.

Một số nguyên tắc để luận đoán đại hạn

Sau khi đã nhận định về ý nghĩa tốt xấu của các sao nhập Đại hạn qúy bạn cần xem các Sao, hoặc nhóm Sao của MỆNH (nếu chưa quá 30 tuổi), hoặc THÂN (nếu trên 30 tuổi) có hợp với các sao nhập Đại hạn hay không .?.. Đây là điểm quan trọng nhất mà nhiều người biết Tử-vi thường hay bỏ qua. Thực tế có khi cách hoặc Sao nhập hạn rất hay mà vẫn chẳng tốt hoặc chẳng ứng nghiệm, chỉ vì không hợp với cách của MỆNH, THÂN.Ví dụ: như Mệnh, hoặc Thân có cách Sát Phá Liêm Tham mà cung nhập hạn có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì không sao dung hòa được, và do đó cuộc sống phải gặp nhiều trở ngại, mâu thuẫn đối kháng, dù cho Cơ Lương đắc địa tại Thìn-Tuất chăng nữa ? Còn như Mệnh, Thân có cách Tử Phủ Vũ Tướng mà hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nhất định là hay rồi, với điều kiện đừng có Không Kiếp lâm vào. Vì Tử Phủ rất kị 2 sao này, dù gặp gián tiếp.

Ngòai ra còn cần phải xem ngũ hành của Chính tinh thủ mạng, hoặc Thân với ngũ hành của chính tinh tọa thủ tại cung nhập hạn (nếu có). Ví dụ như Mệnh có Tham Lang thuộc Thủy. Nếu đại hạn có Tử-Phủ ở Dần hoặc Thân chẳng hạn thì vẫn xấu như thường, vì Tử-Phủ thuộc Thổ khắc với chính tinh là Tham Lang.

Điểm quan trọng thứ nhì là phải xem ngũ hành của Mệnh (nếu chưa quá 30 tuổi) hoặc của Cục (nếu quá 30 tuổi) có hợp với Ngũ hành của Chính tinh và của cung nhập hạn hay không. Hay nhất là được cung và sao sinh bản Mệnh hoặc Cục (tùy theo từng trường hợp) hoặc nếu không phải tương hòa, nghĩa là cùng một hành ( có nhà Tử-vi lại cho rằng cùng một hành là thuận lợi nhất), còn trường hợp sinh xuất, tức là Mệnh sinh Sao hoặc cung nhập hạn, và khắc nhập tức là Sao hoặc cung khắc Mệnh, thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc nhập, tức là sao hoặc cung khắc Mệnh thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc xuất tuy cũng vất vả, nhưng mình vẫn khắc phục được hòan cảnh, và do đó chưa hẳn là xấu.Ví dụ: Mạng của mình là Thủy đi đến Đại hạn có Cự Môn, Hóa Kị, Không-Kiếp cũng chẳng hề gì, nếu có xảy ra cũng chỉ sơ qua, trong khi đó nếu mình Mạng Hỏa, hoặc Kim thì đương nhiên dễ bị hiểm nghèo về nạn sông nước. Hoặc là mạng mình là Kim đi đến cung nhập hạn có Vũ Khúc (Kim) hội Song Lộc, Tử-Phủ …. thì làm gì mà không giàu có, trong khi người mạng Mộc thì có khi lại khổ về tiền tài.

Về ảnh hưởng sớm trễ của chính tinh, chắc qúy bạn đều biết là Nam Đẩu Tinh ứng về 05 năm sau của Đại hạn, còn Bắc Đẩu Tinh ứng về 05 năm trước của Đại hạn. Tuy vậy cũng vẫn có bạn chưa hiểu phải áp dụng để giải đóan như thế nào.Ví dụ: Mạng có Đào Hoa, Mộc Dục, Hoa Cái. Đại hạn có Tham Lang, Thiên Riêu, Hồng Loan, Kình Dương, Thiên Hình … thì gần như chắc chắn trong 05 năm đầu đương số sống trong giai đọan rất lả lướt, bay bướm vì Tham Lang (thuộc nhóm sao Bắc Đẩu Tinh) cũng như cái đầu tàu lôi kéo tất cả các sao phụ kia, nhưng với điều kiện đương số phải là mạng Thủy, Mộc hoặc Kim thì mới ứng nghiệm nhiều. Vì Tham Lang thuộc hành Thủy hợp với ngũ hành trên. Nếu chính tinh nhập hạn là Thiên Lương (thuộc nhóm sao Nam Đẩu Tinh ) thì các sao phụ đó lại phải họat động chậm lại theo với ảnh hưởng của chính tinh, tuy nhiên cuộc sống không bừa bãi bằng người có Tham Lang nhập hạn, vì dù sao Thiên Lương vẫn là sao đứng đắn, đàng hòang hơn (chỉ trừ trường hợp Thiên Lương cư Tị-Hợi mới xấu, mà nhiều sách đã nói tới nhiều rồi …)

Nhiều khi phối hợp Mệnh-Thân với Đại hạn cũng chưa đủ, qúy bạn còn cần xét đến cung Phúc Đức nữa và đừng bao giờ nên quan niệm cung Phúc Đức chỉ biểu tượng đơn thuần về Âm Đức của Ông Bà, Cha Mẹ để lại hoặc của chính tinh tạo ra hoặc mối liên hệ tinh thần của cả giòng họ nội của mình, vì thực ra cung Phúc Đức có thể được coi như cung Mệnh thứ nhì, và đôi khi còn quan trọng và ảnh hưởng hơn. Có nhiều nhà Tử-vi chỉ xét riêng cung Phúc Đức mà có thể tìm ra được khá nhiều nét về cuộc sống tinh thần cũng như vật chất của một người, nhất là trong trường hợp Mệnh-Thân không có đủ yếu tố để mình nhận định rõ ràng hoặc bị coi như là nhược, khiến cho ta không thể bám víu vào mà đoán.Ví dụ: như một người có Tả Phù, Hữu bật, Đào Hoa, Hồng Loan chiếu Thê và cung Mệnh có Thiên Riêu, Mộc Dục, Hoa Cái … hội chiếu thì đương nhiên có lòng tà dâm, dễ có nhiều vợ …! , nhưng nếu cung Phúc Đức có Vũ Khúc, Cô-Qủa, Lộc Tồn thì dù có gặp Đại hạn có yếu tố đa tình, lả lướt chăng nữa cũng khó chung sống thêm với một người đàn bà nào khác một cách chính thức, chỉ có thể giỡn chơi, hoặc thèm ăn phở … trong một thời gian ngắn là cùng.

Điểm sau chót qúy bạn nên lưu tâm là cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra hoặc cần phải giải đóan trong Đại hạn. Trong phần nguyên tắc tổng quát nêu trên, tôi có nói là “nếu cần” thì mới xét tới, vì khi mình giải đóan chung vận hạn thì ít khi phải nhận định khía cạnh này, chỉ trừ khi nào cần thiết một điểm riêng biệt nào mới phải ngó tới cung liên hệ .Ví dụ: Như đương số đã có vợ, hoặc chồng mà cần biết về đường con cái trong Đại hạn đương diễn tiến thì ngòai các điểm cần phối hợp nêu trên, ta phải quan tâm đến cung Tử-Tức (tức là cung liên hệ đến hòan cảnh) trước Đại hạn. Nếu cung Tử-Tức qúa hiếm hoi, như có Đẩu Quân, Cô-Qủa, Kình-Đà, Lộc-Tồn, Vũ-Khúc, Không-Kiếp chẳng hạn thì dù có Đại Hạn có đủ cả Song-Hỷ, Đào-Hồng, Thai, Nhật-Nguyệt đắc địa, Long-Phượng cũng chưa chắc gì đã sinh con đẻ cái đầy đàn, hoặc may mắn về công danh, tiền tài … Còn nếu gặp trường hợp cung Tử-Tức không bị các sao hiếm mà lại còn có Tả-Hữu chiếu, thì gặp Đại hạn trên sẽ sinh liên tiếp, có khi năm một không chừng !?..

Lưu Đại hạn hàng năm : Lưu Đại hạn là một cung cho biết cái của vận hạn trong năm đó, và tính từ gốc Đại hạn. Một nhà Tử vi đã bảo rằng Đại hạn giống như cỗ xe, và Lưu Đại hạn giống như người tài xế. Cỗ xe tốt, thì đi tốt, nhưng cũng còn tuỳ theo người tài xế hay, dở thế nào. Vậy phải nhập cả cung Lưu Đại hạn vào mà đoán. Xem Lưu đại hạn, phải đủ cung chính và 3 cung xung chiếu, nhị hợp …
Kinh nghiệm luận đoán tiểu hạn

Bàn về Tiểu-Hạn (tức là vận hạn trong một năm) qúy bạn sẽ thấy khó khăn, phức tạp hơn Đại-Hạn nhiều, vì phải phối hợp với nhiều yếu tố hơn.

Cung Tiểu hạn ghi những biến cố xảy ra trong năm, địa chi của năm có ghi ở mỗi cung (Tý, Sửu, Dần, Mão ….) Như Tiểu hạn mà thật tốt về công danh, nhưng xem các cung Mệnh, Quan Lộc thấy không báo hiệu công danh tốt. Đại hạn không phải là Đại hạn công danh, và Lưu Đại Hạn không báo hiệu công danh, thì công danh trong năm Tiểu hạn cũng khó mà có, hoặc chỉ có công danh nhỏ. Ngược lại, thấy Tiểu hạn xấu, nhưng lại thấy Đại hạn tốt đẹp, thì cũng không có gì đáng phải lo ngại, bởi vì Đại hạn là nền gốc. Xem Tiểu hạn, phải đủ cung chính và 3 cung chiếu, nhị hợp….

Nếu đặt vấn đề nguyên tắc thì Tiểu-Hạn tạm căn cứ vào các điểm sau (mà một vài điểm theo quy tắc đã được các sách đã nêu ra):

Tương quan giữa Đại-Hạn và Tiểu-Hạn

  • Tương quan giữa Ngũ hành bản Mệnh với các Chính tinh (nếu có) và cung nhập hạn.
  • Tương quan giữa Lưu Đại-Hạn, Địa bàn và Thiên Bàn.
  • Tương quan giữa Ngũ Hành của năm Nhập Hạn với cung và sao nhập hạn
  • Các phi tinh (tức là các sao Lưu như : Lưu Thiên Mã, Lưu Lộc-Tồn, Lưu Kình-Dương, Lưu Đà-La, Lưu Tang-Môn … ) ngòai ý nghĩa xấu tốt của các chính tinh và phụ tinh mà các sách thường nêu ra.
  • Khác (như Tứ hành xung, Can Chi của tuổi so với Can Chi của năm hiện hành …)

Dưới đây tôi xin triển khai các điểm ghi trên để qúy bạn đọc hiểu rõ ràng:

Khi xét đến tương quan giữa Đại Hạn và Tiểu Hạn là đương nhiên ta đã tìm hiểu kỹ Đại Hạn theo các nguyên tắc mà tôi đã nêu ra ở trên. Tôi có thể nói mối tương quan này tối quan trọng, cũng như mối tương quan giữa Đại & Tiểu Hạn nên không bao giờ ta giải đóan giống nhau, mặc dầu cứ 12 năm lại trở về lại cùng một cung tức là cùng các sao và ngũ hành. Riêng mục (1) này tôi chỉ xin nêu ra nhiều ví dụ vì mục này rất quan trọngVí dụ: Đầu tiên là các sao bao giờ cũng phải có đủ bộ mới làm nên chuyện hoặc mới họat động. Chẳng hạn như Đại Hạn có Thái Tuế, Bạch Hổ, Quan Phù, Không-Kiếp, Khốc-Hư thường chủ về tranh chấp, kiện cáo, khẩu thiệt. Khi gặp Tiểu-Hạn có Cô-Qủa, Kình-Đà, Hình-Linh, Hóa Kị, Phục Binh …. Thì dễ bị tai họa tù tội. Nếu Đại Hạn không có những sao nêu trên thì Tiểu-Hạn dù có những sao đó vẫn chẳng bị tai họa gì, có thể bị đau yếu sơ qua, hoặc bị xa gia đình …Đó là bàn về chuyện xấu, còn về việc làm ăn thịnh vượng thì nếu :

Đại Hạn có Vũ-Khúc, Thiên Phủ hợp Mệnh mà Tiểu Hạn có Song Lộc thì đương nhiên làm ăn phát tài, dễ dàng.
Hoặc như Đại hạn có Tử-vi cư Ngọ (nhất là có Quan Lộc hoặc Tài Bạch đóng ở đó) hợp Mệnh mà Tiểu hạn có Khôi-Việt, Thai-Tọa, Tả-Hữu, Long-Phượng, Đào-Hồng-Hỷ, Xương-Khúc … thì dễ có chức phận lớn, dễ chỉ huy hoặc kinh doanh có tầm quy mô …

Nếu thấy các sao nhập Đại Hạn & Tiểu-Hạn hợp thành bộ rồi, cần phải xét xem các Chính tinh (không bao giờ xét đến phụ tinh) của Đại-Hạn có phù hợp hoặc đối kháng với các Chính tinh của Tiểu-Hạn hay không.

Nếu Đại-Hạn có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì Tiểu-Hạn cần có Cự-Nhật hoặc Tử Phủ Vũ Tướng chứ không nên có Sát Phá Liêm Tham … Về điểm này qúy bạn nên xem phần Tiểu luận trong sách Tử vi Đẩu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang cũng đầy đủ và dễ hiểu lắm. Vì thế Tiểu-Hạn tốt cũng chưa chắc ăn mấy.

Nếu chú ý về cá nhân mình, thì cần Đại-Hạn tốt đi vào một trong những cung liên hệ trực tiếp đến mình thời Tiểu-Hạn mới xứng ý (như cung Tài, Quan, Di, Điền, Phúc )

Ví dụ: Mình muốn làm ăn, kinh doanh lớn mà Đại-Hạn còn ở cung Phụ-Mẫu hoặc cung Tử-Tức thì dù cho Tiểu-Hạn có tốt cũng vẫn chưa thể phát huy được đúng mức, nhất định là phải chờ Đại-Hạn chuyển sang cung Tài-Bạch (nhưng nếu xui xẻo ! gặp cung Tài-Bạch lại xấu thì kể như vô vọng ?) mới hạnh thông được.

Sau hết, tôi xin nêu ra một trường hợp rất khó đoán : Đương số Mệnh có Tham Lang cư Thìn, tức là tổng quát sống lả lướt và Đào-Hoa. Cung Thê có Đào-Hồng, Tả-Hữu chiếu tức là có sự lựa chọn, mai mối nhiều và Đại-Hạn lại đi tới cung Thê như thế là đủ hết các yếu tố đi tới hôn nhân. Do đó các thày Tử-vi đều đóan đương số lấy vợ ở các Tiểu-Hạn có : Đào-Hồng-Hỷ, Tả-Hữu, Xương-Khúc … nhưng ai ngờ rằng, đương số lại lập gia đình trong Tiểu-Hạn có Cô-Qủa, Tang-Hổ, Nhật-Nguyệt hãm địa hội Hóa-Kị và lại không ngó thấy ở cung Thê (vì thường thường các nhà Tử-vi hay lựa Tiểu-Hạn hội chiếu với cung Phối hoặc trùng phùng ngay vào cùng Phối để đóan hôn nhân). Tuy trường hợp này hơi kỳ lạ nhưng nếu suy luận một chút là thấy hợp lý vì theo nguyên tắc “ Tổn hữu dư, bổ bất túc “ trong Dịch học, ta thấy các yếu tố về hôn nhân qúa nhiều (tức là dư) thì cần phải có các sao tiết giảm như Cô-Qủa, Tang-Hổ, Kị … thời con thuyền mới có bến đậu được, chứ không “Trăm mối tối nằm không” nhất là Tiểu-Hạn vào cung Giải-Ách, tức là tránh né không nhìn thấy cung Thê là cung Đại-Hạn đi tới để khỏi chịu ảnh hưởng qúa mạnh của các sao Hỷ. Trường hợp này ít khi xảy ra hoặc ít khi gặp, nên quý bạn đừng qúa hoang mang, cứ đóan như thường lệ đi !!!…

Thường thường đóan Tử-vi ai cũng thích các Chính tinh sinh bản mệnh. Điều này chưa hẳn đã hay hòan tòan. Vì nếu gặp chính tinh như Phá Quân hoặc Tham Lang nhập hạn và Mạng mình có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nên lựa Mạng khắc hai sao này hơn là được hai sao này sinh (Lẽ dĩ nhiên nếu hai sao này khắc Mạng là điều tối kị !) Vì bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương không ưa hai chính tinh này, nên tốt hơn hết là “ mời “ hai sao đó “ đi chơi chỗ khác “ tức là trường hợp mình có Mạng khắc hai sao này. Ngay cả trường hợp Mạng mình có bộ sao chế ngự được Tham-Phá (như bộ Tử-Phủ, Vũ-Tướng chẳng hạn) cũng không nên liên hệ đến hai sao này, vì dù sao chúng cũng chủ về tham vọng, ích kỷ, phá tán, bừa bãi, trừ phi đương số là lọai người thích đi vào con đường đó thì không kể. Còn chính tinh nhập hạn như Tử-Phủ, Đồng-Lương … bao giờ cũng cần sinh bản Mệnh, hoặc ít ra cùng một hành với Mạng, dù cho Đại-Hạn có bộ sao đối kháng với các sao ở Tiểu-Hạn.Về tương quan giữa Ngũ Hành bản Mệnh với cung Nhập hạn thì bao giờ cũng sinh bản Mệnh là tốt đẹp, thuận lợi hoặc nếu được tương hòa vẫn hay, chỉ ngại nhất cung khắc bản Mệnh, còn như Mạng sinh Cung, hoặc khắc Cung cũng có khi dùng được, tuy không phải là hay.

Ví dụ: Như hạn đến cung Tử-Tức có các sao tốt. Nếu sinh được cung, tức là mình lo được cho con cái thành công, hoặc đầy đủ, chứng tỏ mình có phương tiện, tuy mình phải vất vả một chút vì con cái. Nhưng nếu cung Tử-Tức xấu đương nhiên là minh khổ vì con (hoặc vì chúng đau yếu, chết non hay con cao bồi du đãng, ăn chơi, hút chích, sì ke ma túy ….. mà mình vẫn thương yêu chúng )

Còn gặp trường hợp khắc cung cũng vậy, có khi hay mà cũng có khi dở. Nếu gặp Tiểu-Hạn đi tới cung Nô-Bộc thì lại hay vì mình khắc phục được người dưới quyền hoặc hòan cảnh, còn như Tiểu-Hạn đi tới cung Phụ-Mẫu chẳng hạn thì mình hay bất hòa với cha-mẹ (Nếu cung Phụ-Mẫu xấu qúa có thể mình phải xa cách cha-mẹ khi qua đời … ).Những điểm trên đây quý bạn cũng có thể áp dụng luôn cho cả Đại hạn (mà phần Đại hạn tôi chưa đề cập tới).

Về vần đề Lưu Đại-Hạn, Địa bàn (tức là Tiểu-Hạn theo vị trí cố định của các cung – tức Lưu Thái tuế theo từng năm, như năm nay Đinh Hợi xem Địa Bàn ở cung Hợi-tức Lưu Thái Tuế ở cung Hợi kích động) và Thiên Bàn (tức là Tiểu-hạn theo hàng Chi an ở ô giữa lá số. Tôi thấy không quan trọng lắm. Vì thực ra chỉ xét kỹ Thiên Bàn là đủ và đỡ rắc rối qúa mức. Chỉ trừ khi nào ta thấy Thiên bàn qúa xấu hoặc không rõ chút nào, lúc đó ta mới cần kết hợp thêm Lưu Đại-Hạn, và địa bàn để xem có yếu tố gì cưu giải hoặc soi sáng thêm hay không ..?? Về cách Lưu Đại-hạn trong các sách như Tử-vi đã có ghi rõ và nêu rồi, tôi không nhắc lại nữa. Bởi thế ngay khi rảnh rang ngồi cân nhắc kết hợp cũng chưa chắc đã giải đóan được chính xác. Vì yếu tố này bổ túc hoặc chế hóa yếu tố kia sẽ đưa đến những kết luận khác nhau. Dù có biết đủ các dữ liệu để giải đoán Tiểu-hạn cao hay thấp còn tùy thuộc rất nhiều vào óc kết hợp tinh vi và kinh nghiệm của người giải đóan.

Về ngũ hành của hàng Can. Năm nhập hạn cũng ảnh hưởng tới Tiểu-hạn nhiều hay ít .Ví dụ dễ hiểu như sau : Một người mạng Kim có Cự Môn, Hóa-kỵ tọa thủ tại Mệnh. Đại-hạn có Không-Kiếp, Tả-Hữu, Sát Phá Tham (tức là hạn Trúc La) đã chết đuối trong tiểu hạn năm Nhâm-Thân. Vì chữ Nhâm là Thủy và cung nhập hạn cũng là Thủy, trong khi đó mạng Kim là sinh Thủy cho nên nước qúa nhiều thì Kim phải chìm lỉm !?..

Suy ra những trường hợp khác cũng vậy. Ví dụ như Tiểu-Hạn đến cung Điền có Tang-Hỏa và nhiều sao Hỏa. Nếu gặp năm Nhâm, hoặc Qúy (đều là Thủy) thì vẫn không đáng ngại về hỏa họan vì đã được Thủy dập tắt rồi !. Như vậy mục 4 này quý bạn cũng không nên bỏ qua khi đóan tiểu hạn, và đây cũng là một điểm cho thấy hai tiểu hạn (12 năm trở lại ) cùng 1 cung đã có sự khác biệt rồi.

Cuối cùng là về các phi tinh (tức là các sao Lưu như Lưu Thái-Tuế, Lưu Lộc Tồn …) Tôi thấy các Phi tinh không quan trọng lắm, chỉ là để xác định thêm một chút những yếu tố đã tìm ra. Ví dụ như biết hạn xấu rồi, thì nếu có thêm Lưu Kình-Dương gặp Kình-Dương cố định đồng cung ta có thể tin chắc là nguy nan. Nếu Tiểu-Hạn tốt thì dù có 2 sao này cũng chẳng hề hấn gì. Cũng có Nhà Tử-vi căn cứ vào vòng Tràng Sinh (Lưu) để tìm ra vận hạn cho những người liên hệ trực tiếp với mình như cha, mẹ, vợ con … Nhưng tôi thấy chưa có gì chính xác và hợp lý nên xin miễn bàn trong mục này.

Qua những điều tôi trình bày trên đây về Đại-Tiểu Hạn. Quý bạn hẳn thấy việc giải đoán vận hạn rất rắc rối và khó khăn rất nhiều, có thể làm ta chán nản. Vì không biết đúc kết các yếu tố tìm ra thế nào, do đó dễ bị sai lầm. Nhiều khi ta đành phải chờ sự việc xảy ra rồi mới thấy rõ cái hay của Tử vi, và vì thế tôi thấy học Tử vi không gì hay bằng chiêm nghiệm thật nhiều lá số mà mình đã theo dõi, chứ nếu chỉ có học thuộc các câu phú hoặc nguyên tắc giải đóan (mà các sách đã nêu) không thôi, thì chẳng bao giờ có thể giải đoán vững vàng./.

Tổng Hợp:  https://xemboituvi.vn/

Nguồn: Tổng hợp từ nhiều nguồn (vi.wikipedia.org & tuvi.cohoc.net)