Giác ngộ là gì?
Giác ngộ là gì? Ý nghĩa của giác ngộ trong đạo Phật? Giác ngộ trong đạo Phật là thấu hiểu được lẽ phải của một con người từ thủa ban sơ cho tới khi qua đời, tìm được những thứ mà từ xưa đến giờ chúng ta chưa từng biết đến. Vậy giác ngộ là gì? Giác ngộ liệu có phải là sự giải thoát hay không?
Giác ngộ là gì? Ý nghĩa của giác ngộ trong đạo Phật
Giác ngộ là gì?
Giác ngộ theo nghĩa Hán Việt chính là thức tỉnh, hiểu rõ một chân lý nào đó. Giác ngộ là sự hiểu biết không chỉ bằng trí thức, lý luận mà bằng sự cảm nhận sâu xa, bằng kinh nghiệm sống trực tiếp. Do đó đôi khi giác ngộ cũng được gọi là tuệ giác.
Tuy nhiên, hiểu một cách đơn giản, giác ngộ chính là từ bỏ đi tật xấu của mình mà sống theo lẽ phải. Giác ngộ đó chưa phải là nghĩa giác ngộ của đạo Phật. Đạo Phật nói giác ngộ là sự thấu triệt được lẽ thật nơi con người từ ban sơ cho tới cuối cùng, tìm được cái từ xưa đến giờ chúng ta chưa từng biết.
Giác ngộ là gì? Ý nghĩa của giác ngộ trong đạo Phật
Một người phàm trần nếu thực sự được giác ngộ thì sẽ có thể được đắc đạo thành Phật - đỉnh cao của tiềm năng và sự phát triển của con người, đó cũng là mục tiêu cứu giúp chúng sinh mà nhà Phật thường nói.
Một người đàn ông đã hỏi đức Phật một số câu hỏi về vũ trụ. Đáp lại, Ngài nhặt một ít lá và nói: “Có nhiều lá trong tay tôi, hay trong rừng?” “Dĩ nhiên là trong rừng nhiều lá hơn,” người đàn ông trả lời. Đức Phật tiếp tục: “Vâng, nhưng lá trong tay tôi đại diện cho kiến thức dẫn đến sự chấm dứt khổ đau.”
Bằng cách này, Đức Phật cho thấy rằng một số câu hỏi là không cần thiết. Thế giới có vô số lĩnh vực nghiên cứu, nhiều như lá của rừng. Nhưng nếu những gì chúng ta muốn hơn bất cứ điều gì khác là giác ngộ, thì tốt hơn là nên tập trung hoàn toàn vào mục đích đó, và tập hợp lại những kiến thức có liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ của chúng ta.
Tại Ấn Độ, các bậc giác ngộ được gọi là Dwijas, có nghĩa là sinh hai lần. Một lần, bạn được sinh ra từ trong bụng mẹ và điều đó diễn ra tự nhiên. Khi sinh ra, bạn đã mang sự ngây thơ và hạnh phúc nhất định đến với thế giới này. Một đứa trẻ vô tội và hạnh phúc. Tuy nhiên, trong thời gian ngắn chúng sẽ bị lấy đi. Trẻ em ngày nay trở nên căng thẳng từ 5 đến 6 tuổi vì sự ngây thơ của chúng bị huỷ hoại tùy thuộc vào khối lượng ảnh hưởng mà mọi người xung quanh gây ra.
Bây giờ, nếu bạn muốn được sinh ra một lần nữa, thì bạn phải chết. Nhưng điều này không có nghĩa là chết về thể chất mà là về tinh thần. Nếu bạn chết theo cách của bạn, tiêu diệt tất cả mọi thứ mà bạn gọi là “bản thân mình”, thì bạn sẽ được sinh ra một lần nữa. Loại tái sinh này xảy ra không phải tự nhiên mà là thông qua ý thức của bạn.
Một lần nữa bạn trở nên hạnh phúc và vô tội, nhưng nhận thức đầy đủ. Bây giờ, niềm vui và hạnh phúc này không ai có thể lấy đi. Vì vậy, những gì bạn gọi là “giác ngộ” có nghĩa là một sự tự hủy diệt có ý thức.
Dâu tây vẫn có mùi vị của dâu tây và những lời khắc nghiệt vẫn còn khắc nghiệt, nhưng bây giờ chúng ta đã biết mọi thứ liên quan đến mọi thứ khác như thế nào, và ngay cả những thứ khó giải thích nhất cũng được thắp sáng từ bên trong bằng một ánh sáng rõ ràng chân thật.
Tuy nhiên, hầu hết mọi người không nghĩ đến sự giác ngộ. Họ chỉ cố gắng sống tốt hơn một chút, họ muốn sống một cách hiệu quả hơn trong sự bình an và hạnh phúc ngắn hạn.
Thông thường, nếu chúng ta không hài lòng với những gì chúng ta đang tìm kiếm trong cuộc sống, chúng ta sẽ không bao giờ tìm kiếm bất cứ điều gì cao hơn.
Nếu bạn nói về sự giác ngộ đối với một người vô gia cư, họ sẽ trả lời: “Cảm ơn, nhưng tôi cần một ổ bánh mì!”.
Thiền sư Shunryu Suzuki (1904-1971) nói về giác ngộ:
“Đó là một điều bí ẩn đối với những người không có kinh nghiệm giác ngộ, giác ngộ là điều tuyệt diệu, nhưng nếu họ đạt được điều đó, nó không là gì cả, nhưng nó không phải là không có gì, bạn hiểu không?” Đối với một người mẹ có 3 đứa con, thì việc có con không có gì đặc biệt, nhưng cũng có thể là một cái gì đó. Bạn có thể gọi nó là “Phật tánh”, “tỉnh thức” hoặc “giác ngộ.” Bạn có thể gọi với nhiều tên, nhưng đối với người có nó, nó không là gì, và nó là cái gì đó.”
Một số người cho rằng, các bậc giác ngộ có khả năng phi thường, thậm chí cả năng lực siêu nhiên có thể nhìn thấy mọi thứ. Tuy nhiên, những kỹ năng này không phải là bằng chứng cho sự giác ngộ, cũng không phải là điều cần thiết cho nó. Ở đây cũng vậy, chúng ta được cảnh báo không theo đuổi những kỹ năng tinh thần có nguy cơ nhầm lẫn ngón tay chỉ vào mặt trăng là mặt trăng.
Giác ngộ có đồng nghĩa với giải thoát hay không?
Nhiều người thường lầm tưởng giác ngộ là giải thoát, cho rằng một khi con người đã giác ngộ thì tự nhiên sẽ được giải thoát. Thực ra khái niệm giải thoát đã có từ trước khi Đức Phật ra đời. Nó phổ biến trong văn hóa cuối Veda và Upanishad tại Ấn Độ.
Theo nét văn hóa này thì giải thoát chính là thoát ra khỏi vòng tái sinh luân hồi. Trong khi đó, với đạo Phật, giải thoát chỉ đơn giản là thoát khỏi sự đau khổ, muộn phiền.
Giáo lý của Đức Phật bao gồm: Tứ thánh đế (là khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và con đường diệt khổ), Tam pháp ấn (là vô thường, vô ngã và khổ), Duyên khỏi (là sự tương quan, tương duyên, tương hữu giữa mọi sự vật).
Đó là những sự thật mà Ngài đã giác ngộ và giảng dạy cho chúng sinh. Phải hiểu rõ những sự thật này thì người ta mới theo đó mà tu taajkp, theo con đường Bát chánh đạo, thuộc vào 3 môn tu học là: Giới, định, tuệ. Phải hiểu biết rồi mới thực hành được. Như vậy phải giác ngộ rồi mới giải thoát được.
Ý nghĩa giác ngộ trong đạo Phật
Cụm từ giác ngộ mọi người đã biết từ lâu, song ý nghĩa sâu sa của nó thì không phải ai cũng biết được. Thế gian có những trường hợp, ví dụ có một người ham mê rượu chè cờ bạc, khi được bạn bè người thân khuyên bỏ thì anh ta đã bỏ được. Người ta gọi anh ấy là đã biết giác ngộ. Như vậy có phải giác ngộ là bỏ đi được tập tính xấu của mình hay không? Trong nhà phật, đó chưa phải là giác ngộ.
Trong sử sách của nhà Phật có ghi chép rõ ràng rằng, Hoàng tử đã từ bỏ ngôi vị của mình, quyết chí đi tu là do ngài đã thấy được cảnh chúng sinh già, bệnh, chết đi. Ngài tự biết rõ ràng người kia già rồi thì chính bản thân ta cũng sẽ già, người kia bệnh rồi bản thân ta cũng sẽ bệnh, người kia chết đi rồi thì ta sớm muộn cũng phải chết. Sinh lão bệnh tử là một quy luật không ai chối cãi được. Thấy rõ như vậy nên Ngài mới nhất quyết đi tu để tìm ra được những lời giải đáp cho thắc mắc: Mai kia nhắm mắt ta sẽ đi về đâu? Muốn ra khỏi sinh tử thì phải làm như thế nào?
Khi tu gặp được các vị tiên dạy từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền, Ngài đã chứng qua hết nhưng chưa giải quyết được những vấn đề trọng đại của con người mà Ngài đang tìm kiếm, thế nên Ngài đã bỏ đi. Đến với người thầy dạy ngài tu chứng định Tứ không là Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Chứng được Tứ không rồi, Ngài vẫn cảm thấy mơ hồ và chưa tìm được cách giải quyết cho các vấn đề của con người, nên lần này Ngài tiếp tục bỏ đi. Rõ ràng là Đức Phật đi tu để giải quyết vấn đề của con người, chứ không muốn tỏ ra mình là một người thông thái gì hết.
Những vấn đề này của Đức Phật có người thắc mắc cũng có người thờ ơ với nó. Đa số đề chấp nhận và không có ý định phản bác gì. Đó là thái độ thờ ơ với chính số phận của mình. Đức Phật thì lại không đành lòng như vậy, Ngài quyết tìm ra cho bằng được các manh mối. Đến dưới gốc cây Bồ Đề, Ngài nhập định 49 ngày đêm. Đêm cuối cùng, canh thứ nhất, Đức Phật chứng được Túc mạnh minh, bừng sáng chuyện của mình từ thời vô lượng kiếp tới giờ. Trong kinh kệ, Ngài nói: "Ta nhớ vô số kiếp về trước như nhớ chuyện mới xảy ra hôm qua". Ngài biết rõ rằng con người không phải chỉ có mặt ở nhân gian 1 lần, mà là vô số lần.
Từ canh hai đến canh ba, Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy rõ chúng sinh sau khi chết theo nghiệp đi trong 6 ngả luân hồi, như người đứng trên lần cao nhìn xuống thấy kẻ đứng giữa ngã tư đường không biết đi về đâu. Như vậy khi chúng ta chết rồi chúng ta sẽ không mất mà đi theo nghiệp của từng người. Nên nhà Phật thường nói đến nhân quả, nghiệp báo để cho chúng sinh tu hành, giác ngộ.
Từ canh ba tới canh năm, khi sao mai mọc, Ngài chứng được Lậu tận minh, dứt hết mầm sinh tử Từ đó Ngài mới dạy chúng sinh phương pháp tu để thoát khỏi sinh tử. Đức Phật đã chứng hết, đã biết và thấy được rõ ràng mới dạy lại cho chúng ta. Đức Phật xoáy thằng bào con người cho nên cái ngài giác ngộ là giác ngộ thẳng về con người. Chúng ta mê cũng là mê nơi con người, thấy thân là thật, trong khi Phật thấy thân này là giả. Phật thấy thân giả nên Ngài giác, chúng ra thấy thân thật nên chúng ta còn mê muội. Bởi cho thân này là thật nên trân quý, những gì nó ưa thích đều muốn được thỏa mãn. Nhưng mình muốn thân mình thỏa mãn, người khác cũng muốn thân họ thỏa mãn, tất cả đều muốn như vậy thành ra giành giật của nhau. Nhỏ giành giạt theo nhỏ, lớn giành giật theo lớn. Như vậy người thân trong gia đình vì chút tư lợi mà giành giật của nhau, không chịu phần thiệt về mình. Vì vậy thân thật mới là thân đau khổ.
Ngược lại nếu là thân giả thì saqo? Đa số sẽ cho rằng, nếu là thân giả thì lo chi, cần gì làm việc. Bồ tát thấy thân mình là giả, thân chúng sanh giả, các Ngài đã lăn xae vào đời để cứu khổ cứu nạn mà không sợ hãi bất cứ điều gì. Tại sao vậy? Cái giả mà chúng sinh lầm cho là thật nên giành giật, giết hại lẫn nhau, các ngài có bổn phận phải thức tỉnh họ, đừng giết hại lẫn nhau. Như vậy các ngài càng biết giả càng thương những người đang chìm vào cơn mê.
Chúng ta thường ít thương người khác, trừ những người thân thuộc của mình, còn những người xung quanh thì mặc kệ, không thương. Bồ tát thấy cuộc đời tạm bợ, con người có rồi mất, không bền lâu. Mà chúng sinh thì lại đắm chìm trong đau khổ nên các Ngài khởi lòng từ bi muốn cứu độ chúng sinh. Nhờ giác ngộ mới có từ bi, nếu không giác ngộ sẽ không có lòng từ bi.
Trạng thái giác ngộ là như thế nào?
Đây là một câu hỏi hay và đức Phật đã giải thích về trạng thái giác ngộ như sau: “Ở đâu không có sự hài lòng hoặc không hài lòng, ở đó có sự trung lập và nhận thức rõ ràng, đó là bản chất thuần khiết của tâm”. Những người giác ngộ được gọi là A-la-hán (Arahant).
Vậy các vị A La Hán ở đâu khi họ chết?
Đây là một câu hỏi rất khó, nhưng Đức Phật đã làm cho nó đơn giản theo cách này. “Khi chúng ta thắp sáng ngọn nến, ánh sáng tắt. Bạn nghĩ ánh sáng sẽ đi đâu?” Tất cả những nghiệp thiện hay nghiệp xấu sẽ không còn nữa, không còn kết quả của nghiệp. Không còn hạnh phúc hay buồn bã nữa, không có thêm niềm vui hay thất vọng, không có sự hài lòng hay sự không hài lòng!
Làm thế nào để giác ngộ?
Chúng ta đã nói rất nhiều về việc giác ngộ là gì, nhưng làm thế nào để chúng ta trở thành một người “giác ngộ”? Mục tiêu chính của việc thực hành thiền (một phần của Bát Chánh Đạo) là giác ngộ.
Thầy Hsing Yun giải thích:
Người ta có thể tìm kiếm sự giác ngộ bằng cách thực hành thiền, nhưng chúng ta nên thực hành như thế nào để chúng ta đạt được giác ngộ? Giác ngộ thật sự không thể đạt được một cách dễ dàng. Chúng ta phải phát triển những khoảnh khắc sâu sắc và hiểu biết mỗi ngày. Những giây phút nhỏ bé của sự giác ngộ tích lũy theo thời gian, cho đến khi chúng đạt tới đỉnh điểm trong một ngọn đèn sáng tuyệt vời của sự giác ngộ.
Ý nghĩa giác ngộ trong Phật giáo Nguyên thủy
Trong Phật giáo Nguyên Thủy, Bồ đề (tiếng Phạn: Bodhi) là có nghĩa là “thức tỉnh“, và nó cũng thường được dịch là “giác ngộ.”
Bồ đề có liên quan đến sự hoàn thiện Tuệ-Minh-Sát vào Tứ diệu đế, dẫn đến sự chấm dứt đau khổ. Người đã hoàn thiện cái nhìn sâu sắc, bỏ qua tất cả phiền não và được giải thoát khỏi vòng luân hồi được gọi là một vị A La Hán. Khi còn sống, họ nhập vào một loại niết bàn có điều kiện, và khi chết, họ hoà nhập niết bàn hoàn toàn và thoát khỏi chu kỳ tái sinh.
Trong kinh Atthinukhopariyaayo Sutta của Tam Tạng Pali (Tipitaka – Samyutta Nikaya 35.152), đức Phật đã nói:
“Sau đó, các nhà sư, đây là tiêu chuẩn mà theo đó một tu sĩ ngoài đức tin, ngoài sự thuyết phục, ngoài khuynh hướng, ngoài những suy đoán hợp lý, ngoài sự thích thú trong quan điểm và lý thuyết, có thể khẳng định sự thành tựu giác ngộ: cuộc sống thánh thiện đã được hoàn thành, những gì cần thực hiện đã được thực hiện, không còn sống trên thế giới này nữa. “
Ý nghĩa giác ngộ trong Phật giáo Đại thừa
Trong Phật giáo Đại Thừa, giác ngộ có liên quan đến sự hoàn thiện trí tuệ, hay trí tuệ Bát Nhã về Tánh không (sunyata). Đây là lời dạy nói về bản chất trống rỗng của tất cả các hiện tượng.
Tại sao nó lại quan trọng? Hầu hết chúng ta đều nhận thức những thứ xung quanh là độc lập và vĩnh cửu. Nhưng quan điểm này chỉ là một phép chiếu. Thay vào đó, thế giới hiện tượng là một liên kết không ngừng thay đổi của các nguyên nhân và các điều kiện (xem thêm Duyên khởi). Tất cả mọi thứ trống rỗng về bản chất, không có thật hay không thật. Sự nhận thức một cách toàn vẹn ánh mặt trời sẽ làm tan biến những cương quyết của sự bám víu gây ra đau khổ cho chúng ta.
Barbara O’Brien giải thích:
Phật giáo Đại Thừa dạy rằng, trong chính bản thân sâu thẳm của chúng ta, chúng ta đã hoàn thiện và giác ngộ. Tuy nhiên, chúng ta không hiểu chúng ta theo cách này. Thay vào đó, chúng ta bị cuốn hút bởi ảo tưởng về những lần xuất hiện và khái niệm bình thường để thấy mình là có giới hạn, không hoàn hảo và không đầy đủ.
Trước khi giác ngộ, chúng ta nhìn thế giới này qua tầm nhìn mơ màng, không thể hiểu bản chất thật của sự tồn tại là gì. Giống như người mù bẩm sinh hình dung thế giới qua các giác quan còn lại. Sau khi giác ngộ, chúng ta nhìn thấy rõ bản chất thật của thế giới giống như người mù giờ đây đã sáng mắt.
Trong truyền thống Đại Thừa, lý tưởng thực hành là Bồ tát, vị giác ngộ vẫn còn trong thế giới hiện tượng để hướng dẫn tất cả chúng sinh đến sự giác ngộ. Lý tưởng trọng tâm của Bồ tát là vị tha, nó phản ánh thực tế rằng không ai trong chúng ta tách rời và tự trị, mọi thứ đều liên quan đến nhau.
Ý nghĩa giác ngộ trong Phật giáo Kim cương thừa
Là một chi nhánh của Phật giáo Đại thừa, các trường phái Mật Tông của Phật giáo Kim Cương Thừa cho rằng, giác ngộ có thể đến cùng một lúc trong một giai đoạn biến đổi. Điều này gắn liền với niềm tin vào những đam mê và những trở ngại của cuộc sống, hơn là trở ngại để vượt qua, có thể là nhiên liệu để biến đổi tâm thức bình thường thành tâm giác ngộ có thể xảy ra trong một khoảnh khắc, hoặc ít nhất trong một cuộc đời.
Chìa khóa cho việc thực hành này là niềm tin vào Phật tánh vốn có, giác ngộ là bản chất bẩm sinh bên trong chúng ta và đơn giản là chúng ta phải nhận ra nó. Tuy nhiên, niềm tin vào khả năng đạt được giác ngộ ngay lập tức không giống với hiện tượng Satori. Đối với hành giả Kim Cương Thừa, giác ngộ không phải là một cái nhìn thoáng qua cánh cửa. Giác ngộ là một trạng thái vĩnh viễn, khai sáng và Phật tánh.
Khi đạt được giác ngộ, đức Phật đã nói:
Thật tuyệt vời! Tất cả chúng sinh đều có trí huệ và đức hạnh của Tathāgata, nhưng họ không nhận ra vì họ mãi bám víu vào những tư tưởng và chấp trước ngớ ngẩn.
“Tathāgata” trong tiếng Phạn có nghĩa là các vị Như lai hay chư Phật. Vì vậy, điều cơ bản là mọi người đều có “Phật Tánh”, có thể đạt được giác ngộ và chấm dứt khổ đau.
Phật tánh là một phần cốt lõi của việc thực hành Phật giáo ở một số trường học Tây Tạng. Trong Phật giáo Đại thừa, Phật tánh là bản chất vốn có của tất cả chúng sinh. Bởi vì tất cả chúng sinh đều là Phật, nhiệm vụ không phải là để đạt được giác ngộ mà là nhận ra nó.
Người ta nói rằng, cố gắng giải thích về giác ngộ là vô hiệu, và tôi đồng ý điều đó. Rõ ràng tôi không phải là một người giác ngộ, mục đích của tôi là tổng hợp những góc nhìn khác nhau về chủ đề này để làm rõ ràng và dễ hiểu hơn một vài khái niệm cho những Phật tử như bạn và tôi.
Thầy Hsing Yun chia sẻ:
Giác ngộ phải trải qua kinh nghiệm trực tiếp và không phải là điều mà một người bình thường có thể suy đoán về nó. Những người tình cờ bắt chước những lời nói và hành động của các vị giác ngộ mà không thực hiện công việc để đạt được giác ngộ thì sẽ mời gọi sự nhạo báng của những người thực sự biết về nó.
Tôi cũng không biết điều gì sẽ xảy ra khi những vị giác ngộ rời khỏi thế giới này. Tôi không biết liệu họ có thoát khỏi sự tồn tại hay tồn tại ở một trạng thái nào đó. Bởi vì, Đức Phật không cung cấp cho chúng ta một câu trả lời rõ ràng.
Có thể những vị Tổ sư theo Phật giáo Đại Thừa đã đề xuất khái niệm Bồ Tát hoãn niết bàn vì lợi ích của chúng sinh hay các cõi tồn tại của chư Phật để giải quyết cho vấn đề này. Bồ Tát là những vị giác ngộ tuyệt vời, nhưng vì lòng bi mẫn bao la của họ, họ hy sinh sự giải phóng cho chính họ và làm việc để giải phóng người khác.
Bài viết liên quan
- Hôm nay đánh con gì đánh số mấy để may mắn
- Lá số tử vi của ngọc nữ Tăng Thanh Hà
- Cuộc đời Tướng Võ Nguyên Giáp theo góc nhìn chiêm tinh hoàng đạo
- Điểm danh 3 con giáp đổi vận giàu sang, tiền tài dư dả năm Nhâm Dần 2022
- Ngày Tam Nương năm 2022 là ngày nào? Bảng tra cứu ngày tam nương năm 2022
- Gãy đũa báo hiệu điềm gì? Gãy đũa Hên hay Xui?
- Nóng Tai Trái, Nóng Tai Phải Là Điềm Gì? Nóng Tai Hên Hay Xui
- Ngứa tai Trái & Ngứa Tai Phải Nam Nữ là điềm gì? Điềm báo tốt hay xấu
- Phân Biệt Charm vàng 3D và vàng 9999 như thế nào?
- MÁCH BẠN Ứng dụng Bát Quái không phải ai cũng biết